CÂY QUẾ Tên khác: Quế bì; quế đơn, quế thanh; quế yên bái; ngọc quế; quế quảng; quế trung quốc; mạy quế (Tày); kia (Dao).Tên thương phẩm: Chinese cassia, Chinese cinnamon, Cassia lignea, Chinese cassia bark oil, Chinese cassia leaf oil, Chinese cassia bark. Hình thái Cây gỗ, thường xanh, cao 10-20m, đường kính thân 25-40(-70)cm; vỏ dày, nhẵn ở cây non, sần sùi ở cây già và có màu nâu xám. Các chồi non có lông màu nâu. Lá mọc so le hoặc gần như đối; phiến lá đơn, nguyên, hình trái xoan thuôn, dài; kích thước 8-25x4¬8,5cm; gốc thuôn; đầu nhọn; mặt trên màu xanh lục sẫm, nhẵn, bóng; mặt dưới màu xám tro, hơi có lông mịn lúc còn non; gân chính 3, hình cung, nổi rõ ở mặt dưới; gân phụ nhiều, song song; cuống lá to, dài 1,5-2cm, mặt trên có rãnh lòng máng. Cụm hoa dạng chuỳ, mọc ở kẽ lá gần đầu cành, dài 7¬15(-18)cm. Hoa nhỏ; có lông mịn, màu trắng hoặc vàng nhạt. Bao hoa gồm 6 thùy gần bằng nhau, màu trắng, mặt ngoài có lông mịn. Quả hạch hình trái xoan hay hình trứng, dài 1-1,5cm, được bao bọc bởi đài tồn tại; khi chín màu đen hoặc tía đậm. Hạt hình trứng, dài 1cm, màu nâu đậm và có những sọc nhạt. Các thông tin khác về thực vật Một số khu vực tại miền Nam Trung Quốc đã đưa quế vào trồng trọt từ rất lâu đời và hiện vẫn gọi là quế “Rougui” (“Giao chỉ”). Có thể nói, các khu rừng nhiệt đới ẩm ở nước ta là quê hương của loài quế. Song trên thị trường thế giới, các sản phẩm từ loài quế lại mang tên gọi “Chinese cassia”, “Chinese cinnamon” hoặc “Canellier de Chine”, vì người Trung Quốc đã đưa quế vào sản xuất hàng hoá và bán ra thị trường từ rất sớm. Quế là loài có nguồn gen đa dạng, có thể gồm nhiều giống, nhiều thứ khác nhau. Do đó cần quan tâm nghiên cứu tính đa dạng trong loài quế. Đây là vấn đề có ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn cao. Phân bố Việt Nam: Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Hà Tây, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Bà Rịa-Vũng Tàu. Trong đó có 4 vùng trồng quế tập trung là: Yên Bái, Quảng Ninh, Thanh Hoá - Nghệ An và Quảng Nam - Quảng Ngãi. Thế giới: Miền Nam Trung Quốc, Lào, Myanmar. Đã được gây trồng tại Indonesia, Ấn Độ, Sri Lanka, Nam Mỹ, miền Nam Hoa Kỳ và Hawaii. Đặc điểm sinh học Cây sinh trưởng trong rừng nhiệt đới, ẩm thường xanh, ở độ cao dưới 800m. Quế là cây gỗưa sáng, nhưng ở giai đoạn còn non (1-5 năm tuổi) cây cần được che bóng. Khi trưởng thành cây cần được chiếu sáng đầy đủ. Ánh sáng càng nhiều, cây sinh trưởng càng nhanh và chất lượng tinh dầu càng cao. Quếưa khí hậu nóng ẩm. Nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng, phát triển của quế là 20-250C. Tuy nhiên quế vẫn có thể chịu được điều kiện nhiệt độ thấp (lạnh tới 10C hoặc 00C) hoặc nhiệt độ cao tối đa tới 37-380C. Lượng mưa hàng năm ở các địa phương trồng quế thường vào khoảng 1.600-2.500mm. Quế có thể mọc được trên nhiều loại đất có nguồn gốc đá mẹ khác nhau (sa thạch, phiến thạch…), đất ẩm nhiều mùn, tơi xốp; đất đỏ, vàng, đất cát pha; đất đồi núi, chua (pH 4-6), nghèo dinh dưỡng, nhưng thoát nước tốt. Quế có hệ rễ phát triển mạnh, rễ trụăn sâu vào đất và cây có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh. Tại vùng đồi núi A Lưới (Quảng Trị), cây trồng từ hạt đến giai đoạn 3,5 năm tuổi đã đạt chiều cao trung bình 2,2m (tối đa 2,7m). Cây 9 năm tuổi có chiều cao trung bình 6,9-7,0m với đường kính thân trung bình 20-21cm. Quế có khả năng tái sinh chồi từ gốc khá mạnh. Trong sản xuất, sau khi chặt cây thu vỏ, từ gốc sẽ sinh nhiều chồi non. Có thể để lại một chồi và tiếp tục chăm sóc để sau này lại cho thu hoạch vỏ. Mùa hoa tháng 4-8, mùa quả tháng 10-12 hoặc tháng 1-2 năm sau. Công dụng Thành phần hoá học: Hàm lượng tinh dầu trong vỏ quế khá cao (1,0-4,0%), còn trong lá và cành non thường thấp (0,3-0,8%). Tinh dầu từ vỏ có màu vàng nâu nhạt, sánh, vị cay, thơm, ngọt, nóng, nặng hơn nước; với thành phần chính là (E)-cinnamaldehyd (70-95%); ngoài ra còn khoảng 100 hợp chất khác. Tinh dầu từ lá quế thường có màu nâu đậm và thành phần chủ yếu cũng là(E)¬cinnamaldehyd (60-90%). Hàm lượng (E)-cinnamaldehyd quyết định chất lượng của tinh dầu quế. Tinh dầu quế thương phẩm trên thị trường thế giới đòi hỏi hàm lượng (E)-cinnamaldehyd trong khoảng 75-95% (ISO: >80% (E)-cinnamaldehyd). Ngoài tinh dầu, trong vỏ quế còn chứa tanin, chất nhựa, đường, calci oxalat, coumarin và chất nhầy… Công dụng: Bột và tinh dầu quế được dùng rất rộng rãi để chế biến thực
phẩm trong công nghiệp cũng như trong từng gia đình. Tây y coi vỏ quế và tinh
dầu quế là loại thuốc có tác dụng kích thích tăng khả năng tuần hoàn hô hấp,
tăng nhu động ruột, tiêu hoá, bài tiết, gây co bóp tử cung, kích thích, miễn
dịch, giãn mạch, kháng histamin và kháng khuẩn mạnh. Trong y học ở nước ta và
Trung Quốc, quế được dùng làm thuốc cấp cứu bệnh do hàn, hôn mê, mạch chậm nhỏ,
đau bụng, chữa chứng tiêu hoá kém, tả lỵ, tiểu tiện khó khăn, đau lưng, mỏi
gối, chân tay co quắp, ho hen, bế kinh, ung thư, rắn cắn…
Những lợi ích từ cây quế đối với cơ thể - Quế có thể làm nên điều thần kỳ đối với sức khỏe của chúng ta, vì thế chúng tôi nghĩ rằng bạn cần phải biết một vài điều cần thiết về lợi ích mà nó mang lại, hãy cùng xem. Quế có thể làm "ảo thuật" bên trong và bên ngoài cơ thể của chúng ta, vì thế các chuyên gia dinh dưỡng khuyên bạn nên bổ sung nó vào thực phẩm hàng ngày như là món atpic (thịt đông kho trứng), nhưng với một tỷ lệ rất nhỏ. Với một khối lượng thực phẩm rất lớn như thịt, bánh ngọt và các món tráng miệng, quế có thể hoạt động như là một chất bảo quản trong thời gian dài, ngoài ra mùi hương của nó cũng rất tuyệt vời. Quế có hoạt động chống oxy hóa cực kỳ cao, tinh dầu của nó có chất chống khuẩn và chống nấm mạnh mẽ. Quế cũng là nguồn cung cấp chất xơ, mangan, sắt và canxi tuyệt vời. Và vì vậy, quế được sử dụng như một biện pháp khắc phục hiệu quả cho các mục đích sau: • Giảm lượng đường trong máu và điều trị bệnh tiểu đường loại 2. • Giảm cholesterol. • Trợ giúp tiêu hóa. • Điều trị tiêu chảy. • Chữa cảm lạnh thông thường. • Giảm đau viêm khớp. • Tăng cường trí nhớ và chức năng nhận thức. • Điều trị đau răng. • Loại bỏ hơi thở hôi. • Chữa đau đầu và chứng đau nửa đầu. Quế giúp kiểm soát lượng đường trong máu, rất tốt trong việc điều trị bệnh tiểu đường type 2, theo một nghiên cứu đã được đưa ra cách đây vài năm, người ta phân những người bị bệnh tiêu đường thành các nhóm để sử dụng quế, có thể là 1,3 hoặc 6 gram quế mỗi ngày dưới dạng viên nang. Kết quả cho thấy tất cả 3 nhóm sử dụng viên nang này đã giảm khoảng 18 – 29% lượng đường trong máu sau 40 ngày sử dụng. Quế giúp duy trì mức độ nhạy cảm insulin vì nó không chỉ kiểm soát lượng đường trong máu mà còn giúp cơ thể sản sinh ít insulin hơn. Điều này rất là tốt vì mức độ insulin cao có nghĩa tăng thêm trọng lượng cơ thể. Nó là một chất chống oxy hóa cực mạnh như chúng ta đã biết ở trên và nó có thể giúp bạn giữ nét trẻ trung lâu hơn. Ngoài ra quế cũng có thể giúp bạn giữ dáng gọn gàng hơn, vì nó làm hòa tan chất béo trong các tế bào. Khi mua bột quế hay lăc bột quế trong lọ, bạn phải cẩn thận, nó sẽ tạo ra rất nhiều đường và có thể phá vỡ kế hoạch giảm cân của bạn, vì thế hãy sử dụng một cách khéo léo. Khi quyết định sử dụng nó hàng ngày, hãy thử tìm kiếm loại quế hữu cơ không có đường hoặc thậm chí có thể sử dụng túi trà quế hàng ngày. Quế có thể giúp giảm cân bằng cách thêm quế vào trong sữa chua, pho mát, bột yến mạch, khoai lang, rau hoặc bất cứ thứ gì, nhưng với số lượng nhỏ để tránh số tiền nhỏ để tránh các chỉ định về lượng đường trong máu. Bạn phải biết: - 1 / 2 thìa quế mỗi ngày có thể làm giảm cholesterol LDL. - Chống lây bệnh viêm nhiễm. - Nó làm giảm sự sinh trưởng tế bào ung thư bạch cầu và ung thư hạch. - Nó có tác dụng chống đông máu. - Nó làm giảm một lượng đáng kể chứng viêm khớp khi kết hợp với mật ong mỗi sáng. - Nó làm tăng chức năng nhận thức và trí nhớ. Kỹ thuật nhân giống, gây trồng Nhân giống: Có thể nhân giống quế bằng hạt hoặc bằng các biện pháp giâm cành, chiết cành. Song hiện nay, người ta vẫn nhân giống bằng hạt là chính. Nhân giống bằng hạt: Hạt giống cần lấy từ những cây mẹ 15-25 năm tuổi, sinh trưởng khoẻ, tán lá đều, quả mập và sai, vỏ dày, chất lượng tốt. Cần chọn những quảđã chín khoảng 1/3, lúc này vỏđã chuyển từ màu xanh sang màu tím than và mềm. Quả thu hái về cần ủ 2-3 ngày cho chín đều, sau đó cho vào nước chà xát, loại bỏ vỏ và thịt quả, đãi lấy những hạt chắc. Hạt quế chứa dầu béo và mất sức nẩy mầm rất nhanh. Do đó cần gieo ngay sau khi thu hái. Nếu chưa gieo ngay, phải bảo quản trong cát ẩm và thời gian bảo quản không quá 2 tuần. Hạt tươi được gieo ngay sau khi thu hoạch, tỷ lệ nẩy mầm đạt 80-90%. Hạt đã qua thời gian bảo quản, tỷ lệ nẩy mầm sẽ giảm xuống rất nhanh. Trước khi gieo cần ngâm hạt trong nước muối loãng hoặc thuốc tím (1%) và giữở nhiệt độ 40-600C trong một vài giờ. Đây là biện pháp xử lý hạt rất tốt; vừa có tác dụng diệt mầm gây bệnh, vừa kích thích hạt nẩy mầm nhanh và tỷ lệ hạt nẩy mầm cũng tăng. Cần ủ cho hạt nứt nanh rồi đem gieo theo rạch trên luống trong vườn ươm hoặc trong các bầu đất đã được chuẩn bị sẵn. Hạt gieo cần vùi sâu trong đất khoảng 1,5-2cm với khoảng cách 20x20cm và làm giàn che với độ che phủ khoảng 50%. Bầu đất để gieo hạt có thể là sọt đan bằng tre, nứa hoặc bằng túi polyethylen có kích thước khoảng 12-13x6-7cm. Thành phần giá thể trong bầu đất bao gồm 85-89% đất, 10-15% phân chuồng đã ủ mục và 1% supe lân. Bầu đất cũng được xếp thành luống dưới giàn che như khi gieo trên đất. Hạt nẩy mầm sau khi gieo khoảng 2 tuần. Khi cây con được 4-5 tháng tuổi cần bón thúc bằng phân vô cơ. Tuỳ từng trường hợp, mà sử dụng lượng phân bón thích hợp. Có thể bón theo tỷ lệ 2:2:1 (30g amoni sulfat + 40g supe lân + 10g kali clorua) hoặc 3:3:1 (45g amoni sulfat + 60g supe lân + 10g kali clorua); hoà vào nước tưới cho 1m2. Cần làm sạch cỏ và giữẩm thường xuyên. Khi cây con đạt độ cao 25-30cm cần dỡ bỏ dần giàn che. Đến giai đoạn 1-2 năm tuổi có thể chuyên cây con ra trồng. Với cây gieo trên luống có thể bứng cả đất hoặc nhổ cây lên, cắt bớt rễ cọc, nhúng vào dung dịch phân bón loãng một đêm rồi đem trồng. Nhân giống sinh dưỡng: Các thử nghiệm giâm cành, chiết cành cũng cho kết quả rất khả quan. Hom giống cần lấy từ những cành bánh tẻở các cá thể non (3-6 năm tuổi), mỗi hom để lại một đôi lá, trước khi giâm xử lý các chất kích thích sinh trưởng thì tỷ lệ ra rễ và nẩy chồi cao. Cần cắm cành giâm vào cát sạch ẩm, có mái che ánh sáng và được phun sương. Khi cành giâm đã ra rễ, cho vào bầu đất và chuyển dần ra ánh sáng để kích thích sự nẩy chồi. Với cành chiết, cần chọn cành có đường kính khoảng 1,5-2cm, mọc thẳng. Thường chiết vào tháng 8-9 đến tháng 2-3 năm sau có thể cắt đi trồng. Cũng có thể chọn các chồi mọc từ rễ (ở những gốc đã khai thác), tách lấy cảđoạn rễ mang đi trồng. Nhân giống bằng biện pháp sinh dưỡng hệ số nhân giống thấp, nhưng lại duy trì được những đặc tính tốt của cây mẹ. Đây là biện pháp tích cực để bảo tồn và phát triển nguồn gen quý. Trồng và chăm sóc: Nên trồng quế trên các sườn dốc không quá 35%, có lớp đất mặt dày, tơi xốp, nhiều mùn, độ pH: 4-5, được chiếu sáng nhiều và khuất gió với độ cao 300-700m (ở phía Bắc) hoặc 1.000¬1.500m (ở vùng núi Kon Tum, Quảng Nam, Quảng Ngãi). Thời vụ trồng tốt nhất là vào mùa xuân (ở phía Bắc) hoặc đầu mùa mưa (ở phía Nam). Đồng bào Dao (Yên Bái) trồng quế chủ yếu vào mùa xuân (ngay sau Tết Nguyên Đán). Đồng bào Cà Tu, Kor (Quảng Nam, Quảng Ngãi) trồng quế vào các tháng 9, 10 vừa để tránh nắng nóng của mùa hè, vừa đón đầu mùa mưa. Khi trồng, cần đào hố kích thước 30x30x30cm và bón lót phân hữu cơđã ủ với supe lân. Tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai mà bố trí mật độ trồng thích hợp. Có thể trồng thuần loại theo khoảng cách 2x2m hoặc 1x1m, sau đó tỉa thưa dần. Ở một số nơi, đồng bào trồng xen quế với mía, sắn, chè để tận dụng đất và tăng thu nhập trong thời gian đầu. Trong những năm đầu, cần làm cỏ và tạo cây che bóng cho quế, sau đó loại bỏ dần. Hàng năm cần chặt bỏ các cành thấp, phát quang dây leo, cây bụi và bón bổ sung thêm phân NPK (khoảng từ 40-100kg/ha; tuỳ thuộc vào tuổi cây và điều kiện đất đai). Cũng có thể sử dụng một số loài cây họ Đậu (như Cốt khí – Tephrosia candida) để làm cây che bóng, phủ đất và cải tạo đất trong vài ba năm đầu. Trên các khu rừng trồng quế tại Trà My (Quảng Nam) đã xuất hiện loại bệnh nguy hiểm – “tua mực”, song đến nay hiểu biết của chúng ta về loại bệnh này còn hạn chế. Theo Hoàng Xuân Tý (1998) bệnh “tua mực” đã xuất hiện ở quế trồng trên vùng đồi núi thấp (100-300m) tại miền Tây Quảng Nam, Quảng Ngãi là do điều kiện khí hậu nóng ởđai thấp gây ra. Đôi khi có thể gặp bệnh thối cổ rễ (do nấm Fusarium) gây ra ở các cây quế non. Còn ở cây trưởng thành có thể bị các loại vi khuẩn gây hại, đáng chú ý trong sốđó là các loài Phytophthora cinnamomi, Corticium salmonicolor, Fomes lignosus, Aecidium cinnamomi, Glomerella cingulata… Một số loại sâu hại như Chilasa clytia, Acrocercops spp.,
Sorolopha archimedias và Gryllotalpa spp. cũng gây hại trên các cây quế non.
Đất trồng quế thích hợp là đất tốt, đủ ẩm quanh năm, giàu mùn đạm và chứa chất dinh dưỡng khác. Đất có thành phần cơ giới sét pha trung bình đến sét, có chất lượng tốt tầng dầy ít đá ẩm và kết vón, thấm và thoát nước tốt. Không trồng quế trên các loại đất cát pha, đất phát triển trên đá vôi và đất thoát nước kém, mực nước ngầm nông và tầng đất mỏng. Thảm thực vật bì thích hợp cho đất trồng quế là đất có cây bụi cao ưa ẩm và đất có cây bụi cao trung bình chịu hạn (đất này có thể trồng quế nhưng cho năng suất không cao). Chú ý: Không nên trồng quế trên đất có thực bì cây bụi như sim, mua, trảng cỏ, vì nơi đây là biểu hiện cho đất đá bị thoái hoá mạnh. Cách trồng: Do đặc tính sinh học của cây quế lúc non ưu bóng râm (độ tàn che 0,5 – 0,7), do vậy, trồng rừng quế nên theo phương thức xen cây nông nghiệp trong 3 năm đầu như trồng sắn sẽ tạo ra độ tán che tối thiểu cho quế và cây đạt tỷ là sống khá cao. Chuẩn bị đất: Phát thực bì vào tháng 12, dọn vào tháng 2-3 dương lịch. Trồng quế vào vụ Xuân bằng cây con gieo vào bầu. Đào hố trước khi trồng một tháng với kích thước 40 x 40 x 40cm. Mật độ trồng quế 5.000- 10.000 cây/ha (1m x1m). Lấp hố trước khi trồng 15 ngày - 1tháng. Cây quế con trước khi trồng cần được tưới đủ nước. Chọn cây không có đọt non, thân thẳng, không bị vỡ bầu khi vận chuyển để trồng. Cách trồng cũng giống như trồng các loại cây gieo trong bầu khác. Nên trồng quế với mật độ dày để hạn chế quế phát triển cành nhánh, thân thẳng và chất lượng vỏ quế cao hơn. Sau khi trồng một tháng kết hợp với chăm sóc lần đầu, chuẩn bị để trồng xen sắn (vào tháng 3-4). Sang năm thứ hai, tiếp tục xen sắn với quế, trồng sắn vào tháng thứ 3-4, mật độ trồng 5000-7000 cây/ha. Trong mùa mưa làm cỏ,vun gốc cho sắn 2 lần kết hợp với chăm sóc quế. Những cây quế 2 tuổi luôn nằm dưới tán lá của cây sắn trong thời kỳ nắng gắt. Để sắn lưu 2 năm mới thu hoạch, sẽ tạo tán che cho rừng quế 3 tuổi . Đến năm thứ 4 không cần phải trồng xen với cây nông nghiệp. Giai đoạn này rừng quế đã khép tán và phát triển thành rừng quế thuần loại. Chú ý: Trong quá trình chăm sóc quế, cần lưu ý để lại các cây gỗ tái sinh có giá trị kinh tế, các loài tre nứa, vầu tái sinh kể cả các loại cây dược liệu thân thảo chịu bóng nhằm tạo thành rừng quế hỗn hợp nhiều loại, có kết cấu nhiều tầng cây, tăng thêm khả năng phòng hộ bảo vệ đất của rừng quế và thu nhiều loại sản phẩm hơn cho người dân.
Tỉa thưa Rừng quế 7-8 tuổi đạt D>9cm và chiều cao H>7m, tiến hành tỉa thưa lần đầu. Nếu mật độ trồng 500 cây/ha (1 m x 2m) chặt tỉa thưa 2500 cây/ha (cự ly 2m x 2m). Sản phẩm thu được là quế loại 2 và quế cành để cất tinh dầu và gỗ nhỏ. Rừng quế đến tuổi 15 - 16 thì tỉa thưa 2 lần. Cây quế lúc này có D>16 cm H=l lm. Mật độ còn lại 1250 cây/ha, khoảng cách 4m. Trong quá trình tỉa thưa rừng quế, không chặt các cây bị chèn ép và tụt tán như kỹ thuật tỉa thưa rừng trồng thông thường, mà tiến hành chặt các cây quế to, sinh trưởng khoẻ, tán lá rậm, để giải phóng không gian dinh dưỡng cần thiết cho các cây quế bị chèn ánh sáng. Sau 2-3 năm tỉa thưa, các cây quế này (cây quế bị chèn ép) sẽ tốt. Đây là đặc tính riêng biệt của cây quế. Chặt chính: Nếu sản xuất vỏ quế “cán dao” (loại II) với gỗ nhỏ thì có thể khai thác trắng rừng quế ở tuổi 14-15. Sau đó kinh doanh rừng chồi ở luân kỳ II. Nếu sản xuất quế loại I và gỗ lớn có thể khai thác trắng rừng quế ở tuổi 25-30. Trong quá trình tỉa thưa và khai thác rừng quế cần chú ý bảo vệ môi trường. Nên tận dụng các chồi, cành và lá quế để cất tinh dầu. Trong những năm đầu trồng quế cần chú ý không cho gia súc phá hoại. Phải phòng chống cháy rừng. Khai thác, chế biến và bảo quản Ở giai đoạn 6-7 tuổi, cây đạt chiều cao khoảng 2-3m và đường kính thân khoảng 2-3cm có thể thu hoạch đợt đầu, kết hợp tỉa thưa. Với trường hợp này cần thu toàn bộ vỏ thân, vỏ cành,lá và ngọn để cất tinh dầu. Trung bình mỗi hecta cho 5-6 tấn nguyên liệu ở giai đoạn tỉa thưa đầu tiên. Các đợt tỉa thưa tiếp theo cách nhau 3-4 năm và năng suất vỏ cành lá cũng tăng dần. Đến giai đoạn sau 15 năm tuổi chất lượng vỏ quế mới tốt. Cây càng già (20-50 năm tuổi), chất lượng vỏ càng cao. Vỏ quế thường được khai thác từ tháng 3 đến tháng 6 hoặc từ tháng 10 đến tháng 11 hàng năm. Khai thác vào các thời kỳ này thường dễ bóc vỏ. Đồng bào thường khoanh và bóc một vòng vỏ dài 30-60cm quanh thân ở gần sát mặt đất một vài ngày trước khi khai thác. Vỏ quế sau khi bóc cần được xử lý và chế biến ngay. Mỗi địa phương thường có tập quản xử lý, chế biến quế riêng. Tại một vài nơi, thường cắt vỏ thân thành từng khoanh dài 50-60cm rộng 5-7cm, cạo bỏ lớp vỏ ngoài, ngâm nước trong vòng 24 giờ rồi rửa sạch, phơi khô ở nơi râm mát, thoáng gió. Sau đó xếp vào sọt, xung quanh có lót lá chuối khô, dùng các hòn đá nặng đè lên trong 3-4 giờ, rồi lại tiếp tục phơi đến khi khô kiệt. Có nơi dùng tre nứa kẹp chặt cho 2 miếng vỏ quế úp lại với nhau (“quế kẹp”). Nhiều nơi, lại cắt vỏ quế thành từng đoạn dài 40-50cm phơi khô để cho sản phẩm “quế ống”. Các loại quế vỏ bóc từ thân hoặc cành to được coi là có chất lượng tốt nhất. Vỏ quế thu từ các bộ phận khác nhau trên cây được mang những tên gọi khác nhau: -“quế hạ căn”: vỏ quế lấy từ độ cao cách mặt đất 20-40cm đến 1,2m trên thân cây. Loại này có chất lượng thấp. -“quế thượng châu”: vỏ quế bóc từ thân cây ở độ cao 1,2m lên đến chỗ phân cành cấp 1. Đây là loại quế có chất lượng tốt nhất. “quế thượng biểu”: vỏ quế bóc từ cành to. “quế chi”: vỏ quế bóc từ cành nhỏ. Y học cổ truyền thường đánh giá quế bằng hình thái, màu sắc, mùi vị… và biện pháp chế biến sau khi bóc vỏ… Khi khai thác cần tận dụng toàn bộ lá, vỏ cành nhỏ, quế vụn ngọn non để cất tinh dầu. Tinh dầu quế nặng hơn nước, nên cần có thiết bị và qui trình chưng cất thích hợp. Cần đặc biệt chú ý tới việc tách, gạn, lọc tinh dầu từ bình phân ly. Với thiết bị chưng cất bằng áp lực sẽ nâng cao hiệu suất tinh dầu và rút ngắn thời gian chưng cất. Mỗi cây quếở giai đoạn sau 15-20 năm tuổi có thể cho 12-16kg vỏ khô (bình quân 4,5 tấn/ha) cùng một khối lượng đáng kể vỏ cành và lá. Gỗ quế sau khi bóc vỏ là nguồn nguyên liệu có triển vọng trong công nghiệp chế biến gỗ hiện đại. Chất lượng của các sản phẩm quế luôn biến động; phụ thuộc vào các yếu tố di truyền, sinh thái, thời vụ khai thác và công nghệ chế biến. Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn Theo số liệu khảo sát của Hoàng Cầu (2005) về 75 hộ gia đình trồng quế tại bản Khe Lơ (xã Yên Sơn – Văn Yên – Yên Bái), trong thời gian từ 1993-1994 thu nhập trung bình từ quế đạt 10 triệu đồng/hộ/năm (bình quân hộ thu nhập cao: 20 triệu đồng/năm, bình quân hộ thu nhập thấp: 6 triệu đồng/năm). Đến năm 1998, diện tích rừng quếở nước ta đạt khoảng 61.820 ha (trong đó có 19.743 ha có thể khai thác) với trữ lượng ước tính khoảng 29.000-30.000 tấn vỏ. Cũng năm 1998, sản lượng quế vỏđã khai thác đạt 2.867 tấn. Hàng năm Việt Nam xuất khẩu khoảng 1.500-2.000 tấn vỏ và 5-7 tấn tinh dầu quế. Theo thống kê của FAO (1998) tổng diện tích quế đến tuổi khai thác tại Quảng Đông và Quảng Tây (Trung Quốc) vào khoảng 35.000 ha với sản lượng ước chừng 28.000 tấn. Trung Quốc là nước sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu một lượng lớn quế vỏ và tinh dầu lá quế. Chỉ riêng nhu cầu chế biến thực phẩm trong các gia đình tại Trung Quốc hàng năm đã cần tới 500 tấn tinh dầu lá quế. Sức tiêu thụ của thị trường thế giới vào khoảng 20.000-30.000 tấn quế mỗi năm. Các nước nhập khẩu nhiều quế là Hoa Kỳ, Pháp, Canada, Nhật Bản, Singapor, Ấn Độ và thị trường Hồng Kông… Giá mua bán trên thị trường thế giới thay đổi trong khoảng 3.000-4.000 USD/tấn quế vỏ, 52.000 - 100.000 USD/tấn tinh dầu (từ quế vỏ) và 30.000-35.000 USD/tấn tinh dầu (từ lá quế). (Theo Lawrence, 1993, 1997; Chung R.C.K.& Purwaningsh, 1999; Lã Đình Mỡi và cộng sự, 2001; Vũ Văn Dũng và cộng sự, 2002). Quế (Cinnamomum cassia J. S. Presl) là loài nguyên sản ở Việt Nam. Hiện vẫn còn gặp quế phân bố tự nhiên tại một số khu rừng ẩm nhiệt đới (Cúc Phương – Ninh Bình, Núi Đinh – Bà Rịa-Vũng Tàu…). Đây là nguồn gen quý và rất đa dạng cần được nghiên cứu để bảo tồn, phát triển và sử dụng bền vững. Để phát triển quế đạt hiệu quả cao việc nghiên cứu xác định
các vấn đề về chất lượng, xuất xứ của từng loại quế là vấn đề quan trọng. Muốn
có thị trường bền vững thì sản phẩm phải có khối lượng, chất lượng cao và ổn
định. …………….. |