cây Vô Ưu Cây Vô Ưu thường được dịch là cây Sala. Cây hoa này có khá nhiều tên gọi khác: Sal, Shorea Robusta, Tha la, hoa đầu lân, cây Ngọc Kỳ Lân hay Hàm Rồng…
Trước kia, Sala thường trồng trong các sân chùa
Nam tông ở Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào và một số chùa Khmer
Nam bộ của Việt Nam. Ngày nay, trong các ngôi chùa Mật tông cũng trồng loại cây
này. nụ và hoa cây Vô Ưu Khi hoa tàn, quả Sala sẽ lớn dần, to tròn, có màu xám, mùi hắc khó ngửi, bên trong chứa 4 đến 8 hạt, hình cầu. Khi lõi bên trong quả thối đi mới, người ta mới có thể bổ lấy hạt trồng thành cây. Quá trình này diễn ra đúng theo quan niệm phồn thực về sinh, diệt và tái tạo trong Ấn Độ giáo. Chùm hoa nhìn giống với rắn thần (naga), mỗi bông là đầu và miệng phùng mang che phần nhụy chính giữa có hình một lingam của thần Shiva và nhiều shivalingam nhỏ bao quanh, nên được gọi là Nagalingam hay “hoa Shivalingam”. Cũng vì hình tượng này, mà nhìn chùm hoa, ta dễ liên tưởng đến con rắn hổ mang chín đầu, mùng mang để bảo vệ Đức Phật trong lúc ngài nhập định liên tục trong 49 ngày, dưới cội cây bồ đề. Hoa sala có mùi rất thơm, hương tỏa xa thanh thoát, được xem là loài hoa vô ưu hay ưu đàm. Sala nở rộ tượng trưng cho Phật Pháp (Dharma), và Đức Phật cuối cùng đã chọn giữa bóng hai cây này (song thọ) để nằm nghỉ và đi vào Niết Bàn Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, có kể rằng, trên đoạn đường cuối cùng trong chuyến vân du về Câu Thi Na (Kushinagara) cùng với A Nan Đa, vị thị giả của mình, Đức Phật bảo: “Này A Nan Đa, ta cảm thấy mệt mỏi quá và muốn nằm nghỉ, hãy trải tấm tọa cụ ra giữa hai cây sala, đầu hướng về phương Bắc”. Khi Ngài vừa nằm xuống, bỗng hai cây sala nở hoa rực rỡ, thơm ngát, mặc dù lúc đó không phải là mùa ra hoa, như để tiễn đưa đấng Đạo Sư về cõi niết bàn, về với cảnh giới chân như muôn thuở… (Nguồn: sưu tầm) |